" SAOLÔ ! SAOLÔ ! SAO NGƯƠI BẮT TA ? "
" Trích thư Thánh Phao-Lô Tông Đồ gởi tín hữu Thành... "
1. SINH QUÁN VÀ GIA THẾ:
Thánh Phaolô có tên là Saolô, sinh
vào thập niên đầu của công nguyên, tức là cùng thời với Chúa Giêsu. Tuy là người
Do thái, thuộc chi họ Benjamin, nhưng Saolô sinh ra và lớn lên ở Tarsus, thủ phủ
của tỉnh Cicilia, nay là miền nam Thổ nhĩ kỳ. Ngài vóc dáng thấp bé, nhưng thông
minh vượt xa những người cùng lứa tuổi. Lúc nhỏ được giáo dục ở Tarsus là một
trung tâm nổi tiếng về văn hoá và triết học. Lớn lên, Saolô được gởi lên
Giêrusalem, học với Thầy Gamaliel Cả, theo những tiêu chuẩn khắt khe nhất của
nhóm Biệt phái. Saolô là một người lỗi lạc trong lãnh vực văn chương và triết
học của cả ba nền văn hóa chính thời đó là Hy lạp, La tinh và Do thái. Ngài
thuộc lòng Kinh Thánh của người Do thái, tức là bộ Cựu Ước. Saolô hết sức nhiệt
thành đối với truyền thống của cha ông (x. Gal 1:14; Phil 3:5-6; Cv 22:3; 23:6;
26:5).
2. CUỘC TRỞ LẠI:
Do sống cùng thời với Đức Giêsu và
là ngôi sao đang lên của trường phái Pha-ri-sêu, chắc chắn Saolô phải biết những
gì xãy ra ở Giê-ru-sa-lem. Có thể ông đã nhìn thấy và rất có thể ông đã nghe
biết những bài giảng của Đức Giêsu. Và chắc chắn, Saolô rất ghét Ngài vì Ngài
đang phá đổ những gì mà ông nhiệt thành tin tưởng. Sau cái chết của Đức Giêsu,
ông tưởng đâu phong trào “lạc giáo” đó cũng tan theo. Nhưng ngược lại, những kẻ
theo “con đường” (The Way) càng ngày càng đông. Saolô phải điên lên. Ông xin
trát để lùng bắt tất cả những người theo “Đạo” và đưa về Giê-ru-sa-lem trừng
phạt. Nhưng một biến cố xãy ra. Vào khoảng năm 33-35, trên đường từ
Giê-ru-sa-lem tới Đa-mát để bắt bớ người theo Đạo, Saolô đã bị quật ngã và từ đó
ông đã hoàn toàn thay đổi. Chính Chúa Kitô Phục sinh đã đích thân chọn ông làm
tông đồ của Ngài. Chúng ta hãy đọc lại biến cố này qua lời tường thuật của thánh
Luca (Cv 9:1-19).
3. HOẠT ĐỘNG TRUYỀN GIÁO:
Sau cuộc trở lại, Sao-lô bắt đầu
hoạt động tông đồ ngay tại Đa-mát (Cv 9:20-22). Sau đó Ngài lên Giê-ru-sa-lem
gặp các tông đồ qua sự giới thiệu của Ba-na-ba rồi trở về Tác-xô (35-43 AD).
Khoảng năm 43, Ba-na-ba đến tìm Sao-lô. Hai ông đã rao giảng và thành lập giáo
đoàn tại An-ti-ô-khi-a. Từ khoảng năm 46 cho đến hết đời, Sao-lô còn gọi là
Phao-lô, đã đặt bước chân truyền giáo của Ngài trên khắp các thành thị và hải
cảng thuộc đế quốc La mã. Có thể chia những chuyến đi của Ngài làm ba cuộc hành
trình truyền giáo chính:
Hành trình thứ nhất từ năm 46 đến
năm 49. Xuất phát từ An-ti-ô-khi-a thuộc miền Sy-ri-a, Phao-lô và Ba-na-ba đã đi
nhiều nơi thuộc đảo Sýp và miền Pi-xi-đi-a. Đến đâu các ngài cũng bắt đầu rao
giảng cho người Do thái tại các hội đường, nhưng phần đông không đón nhận Tin
Mừng, do đó các ngài đã quay sang rao giảng cho dân ngoại. Nhiều người không
phải Do thái đã nhiệt liệt đón nhận Lời Chúa. Điều này khiến người Do thái đâm
ra ghen tức và xúi giục dân chúng nổi lên đánh đuổi các ngài.
Trong giai đoạn này, một biến cố xãy
ra do sự xung đột giữa các Kitô-hữu gốc Do thái và các Kitô-hữu gốc dân ngoại
khiến đưa đến “công đồng chung” Giê-ru-sa-lem năm 49. Chúng ta sẽ tìm hiểu cặn
kẽ biến cố này ở một bài khác.
Hành trình thứ nhì từ khoảng năm 50
đến năm 52. Cũng xuất phát từ An-ti-ô-khi-a thuộc miền Sy-ri-a, lần này Phao-lô
không đi với Ba-na-ba mà đi với Xi-la và Ti-mô-thê. Các ông đi lên hướng bắc
thuộc miền Ga-lát và Phy-ghi-a, rồi vượt biển đến Phi-líp-phê thuộc tỉnh
Ma-kê-đô-ni-a, sau đó đến Thê-xa-lô-ni-ca. Bị xua đuổi, một mình Phao-lô phải ra
đi đến A-thê-na, thủ phủ của Hy lạp, tại đây Phao-lô đã giảng cho hội đồng
A-rê-ô-ga-pô (Cv 17:16-34) là nơi quy tụ các triết gia nổi tiếng nhất Hy lạp.
Sau đó ngài rời đến Cô-rin-tô rao giảng và thành lập giáo đoàn tại đó. Cũng tại
đây, Phao-lô đã viết bức tông thư đầu tiên gởi cho tín hữu Thê-xa-lô-ni-ca (1
Tx) vào năm 51. Đây cũng là thư tịch tiên khởi cho cả Tân Ước. Tiếp theo là thư
thứ hai 2 Tx.
Hành trình thứ ba từ
khoảng năm 52 đến năm 56. Cũng xuất phát từ An-ti-ô-khi-a, Phao-lô đi qua miền
thượng du đến Ê-phê-xô (Cv 19:1) rao giảng và thành lập giáo đoàn tại đó. Thời
gian này, Phao-lô đã viết hai thư 1 và 2 Cô-rin-tô (khoảng năm 54,55) và thư
Rô-ma (khoảng năm 55).
Hành trình cuối cùng
(56-64). Vì sự ghen ghét của người Do Thái, khoảng năm 56 Phao-lô đã bị bắt, bị
xét xử và bị cầm tù nhiều nơi. Ngài khiếu nại lên hoàng đế với tư cách là công
dân La mã, do đó được giải qua La mã và bị giam lỏng tại đó. Trong thời gian
này, ngài được tự do tiếp xúc với mọi người, đã “rao giảng Nước Thiên Chúa và
dạy về Chúa Giê-su Ki-tô một cách mạnh dạn, không gặp ngăn trở nào” (Cv 28:31).
Khoảng thời gian này, ngài đã viết thư cho Phi-lê-môn, thư cho các tín hữu
Cô-lô-xê, thư cho các tín hữu Ê-phê-xô (năm 60), thư cho các tín hữu Phi-líp-phê
(năm 61), thư thứ nhất cho Ti-mô-thê, thư gởi Ti-tô (năm 62), thư thứ hai cho
Ti-mô-thê (năm 63).
4. TỬ ĐẠO:
Chúng ta không có sử
liệu chắc chắn về cái chết của thánh Phao-lô. Tương truyền rằng, khoảng năm 64
Ngài bị chém đầu dưới thời hoàng đế Nê-rô. Sau đó, Ngài được an táng gần địa
điểm hiện nay là Vương Cung Thánh Đường Thánh Phao-lô Ngoại Thành.
Mừng Lễ Quan Thầy các Soeur dòng Saint Paul Vũng Tàu
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét